[Phiên 3] Vấn đề về chính sách và quản trị năng lượng để ứng biến với biến đổi khí hậu khu vực Đông Nam Á: Những bài học từ cuộc khủng hoảng năng lượng ở Liên minh châu Âu

ThS. Railla Puno,

Trung tâm Luật Quốc tế,

Trường Đại học Quốc gia Singapore (NUS)

 

Châu Âu đã trải qua một cuộc khủng hoảng năng lượng chưa từng có với giá cả đạt mức cao nhất mọi thời đại vào năm 2022. Giá khí đốt ở châu Âu đã tăng 1.000% từ tháng 4 năm 2020 đến tháng 1 năm 2021 và tăng cao hơn nữa vào năm 2022, khiến các chính phủ ở châu Âu phải chi trả hoặc dự trữ hơn 800 tỷ USD để hỗ trợ người tiêu dùng. Mặc dù bị tác động nghiêm trọng bởi tình hình chiến sự ở Ukraina và đại dịch COVID-19, nhiều người tin rằng cuộc khủng hoảng này đã diễn ra từ lâu. Châu Âu đã phụ thuộc vào một nhà cung cấp duy nhất cho phần lớn nhu cầu năng lượng của mình và bị ràng buộc bởi các hợp đồng dài hạn đặc trưng cho thị trường nhiên liệu hóa thạch. Hơn nữa, bất chấp cuộc khủng hoảng khí hậu đang rình rập và cam kết của Liên minh châu Âu (EU) đạt mức phát thải ròng bằng không vào năm 2050 theo Hiệp định Paris, tốc độ phát triển năng lượng tái tạo trong khu vực này vẫn rất hạn chế. Nhiều học giả đồng ý rằng nếu việc phát triển năng lượng tái tạo được đầu tư sớm thì có thể đã giảm bớt sự phụ thuộc của châu Âu vào khí đốt của Nga, nhưng tính đến năm 2020, chỉ khoảng 20% năng lượng sử dụng để sưởi ấm và làm mát và 10,2% hoạt động vận tải đến từ các nguồn tái tạo. Mặc dù giá cả đã giảm đáng kể vào năm 2023, chúng vẫn ở mức cao hơn nhiều so với mức trung bình lịch sử ở cả châu Á và châu Âu, với dự kiến thị trường khí đốt tự nhiên sẽ tăng trưởng mạnh trở lại vào năm 2024. Làm thế nào Đông Nam Á có thể học hỏi từ kinh nghiệm của EU và tránh kịch bản khủng hoảng năng lượng tương tự? Được coi là tụt hậu về chính sách khí hậu và năng lượng, các quốc gia Đông Nam Á đã phải đối mặt với những rủi ro tương tự như châu Âu. Hầu hết các quốc gia châu Á phụ thuộc nhiều vào một nhà cung cấp nhiên liệu hóa thạch và là khu vực duy nhất mà tiêu thụ khí đốt tự nhiên dự kiến sẽ tăng trong 20 năm tới. Cuộc chiến kéo dài giữa Nga và Ukraine cũng có thể ảnh hưởng đến sự ổn định trong khu vực do sự phụ thuộc vào dầu thô, chiếm phần lớn trong cơ cấu năng lượng của khu vực này tính đến năm 2020.

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), với tư cách là một tổ chức quốc tế, trong nhiều năm qua đã hợp tác về các vấn đề liên quan đến năng lượng. Chủ đề của Kế hoạch Hành động Hợp tác Năng lượng ASEAN (APAEC) 2015-2025 là tăng cường kết nối năng lượng và hội nhập thị trường để đạt được an ninh năng lượng, khả năng tiếp cận, giá cả phải chăng và bền. Điều này phù hợp với mục tiêu theo đuổi phát thải carbon ròng bằng không càng sớm càng tốt vào nửa cuối thế kỷ này. Tuy nhiên, không giống như EU, ASEAN chủ yếu chỉ đưa ra các khuyến nghị dựa trên quan hệ chính trị và niềm tin lẫn nhau đối với quốc gia thành viên để thực hiện các cam kết và thỏa thuận mà không tồn tại một thể chế lập pháp như của Liên minh châu Âu.

Bài viết này nhằm phân tích nguyên nhân của cuộc khủng hoảng năng lượng ở châu Âu, xem xét phản ứng của châu Âu và so sánh chúng với những rủi ro và thách thức mà thị trường năng lượng ASEAN phải đối mặt. Bài viết cũng phân tích, so sánh giữa EU và ASEAN với tư cách là các tổ chức quốc tế, đặc biệt là phương pháp quản trị khu vực của ASEAN và xem xét mức độ ASEAN có thể thực hiện các chính sách năng lượng chống chịu với biến đổi khí hậu. Bài viết này sẽ kết luận bằng các khuyến nghị về chính sách năng lượng chống chịu với biến đổi khí hậu của ASEAN và quản trị khu vực để thúc đẩy đầu tư xanh bởi các nhà đầu tư và cơ chế thị trường.

Điều này sẽ cho phép các quốc gia thực hiện các cam kết theo Hiệp định Paris nhằm đảm bảo an ninh năng lượng, giá cả phải chăng và bền vững, đồng thời duy trì hòa bình, ổn định và thịnh vượng cho khu vực.